Lưu ý
Chưa có đầy đủ thông tin về việc sử dụng dược liệu này trong thời kỳ mang thai và cho con bú. Bạn cần tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc thầy thuốc trước khi dùng thảo dược này.
Ngoài ra, một số đối tượng đặc biệt như người có cơ địa nhiệt hoặc mắc bệnh táo hay bị thiếu máu, tốt nhất không nên dùng bạch đậu khấu. Trẻ em, phụ nữ mang thai và cho con bú cũng là đối tương không khuyên dùng dược liệu này.
Nguồn gốc
Cây bạch đậu khấu là loài thảo dược mọc hoang trong tự nhiên, trồng nhiều các 1 số nước như Việt Nam, Thái Lan, Lào, Nam Mỹ,… Ở Việt Nam, cây mọc ở vùng núi cao, khí hậu mát mẻ như Lào Cai, Cao Bằng,… Loài cây thảo này cao khoảng 2-3m, sống lâu năm. Rễ mọc bò, lá mọc thành 2 dãy. Cụm hoa mọc thành bông, hoa màu trắng.
Mùa thu là lúc thu hái quả. Thường sẽ hái cây trên 3 năm, quả được hái lúc còn ở giai đoạn chuyển sang vàng xanh (gần chín). Sau khi hái phơi khô trong bóng râm. Hoặc phơi khô xong bỏ cuống rồi xông diêm sinh tới khi vỏ trắng, cất đi dùng dần. Lúc dùng thì chỉ lấy nhân, bỏ vỏ và giã nát.
Quả bạch đậu khấu nhìn khá lạ. Quả có hình cầu và vỏ nhăn nhăn. Quả khía dọc, lúc chin màu nâu trắng còn hạt thì có tinh dầu thơm. Quả bạch đậu khấu gọi là khấu mễ (khấu nhân), chứa từ 20-30 hạt, mùi thơm vị cay.